Là người dân xứ Lệ, không ai lại không thuộc nằm lòng câu ca đã đi vào sách sử: “Lệ Thủy gạo trắng nước trong/Ai về Lệ Thủy thong dong con người”
Tôi không thích dùng chữ “người”, thay vào đó là chữ “ngòi”. Như vậy câu ca này sẽ thành là:“Lệ Thủy gạo trắng nước trong/Ai về Lệ Thủy thong dong con ngòi” (sông ngòi).
Về
điểm này, xin trao đổi thêm: Sở dĩ nói “thong
dong con ngòi” mà không nói “thong
dong con người” là bởi vì ngày trước phương tiện đi lại chủ yếu bằng thuyền
đò. Sách “Ô châu cận lục” của Dương
Văn An viết: “Trạm dịch Bình Giang ở xã
An Trạch (Tổng Mỹ Trạch - thế kỷ 18 là
tổng An Trạch. (Theo Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn, tổng này có 8 phường là: An Trạch, Cổ Liễu, Thổ
Ngõa, Liêm Ái, Tâm Duyệt, Quy Hậu, Dương Xá, Uẩn Áo.): “Từ Minh Linh
đi bộ tới hay tư Nhật Lệ đi thủy qua, đường đều thông suốt. Điệp rùng lưng non,
lăn tăn mặt nước, sông núi ngắn dài ngàn vạn dặm gió trăng, đó là nơi khách xa
nghỉ ngơi có phong cảnh đẹp vậy.”.
Cũng
trong cuốn địa chí này, khi nói về chùa Kính Thiên (Hoằng Phúc), Tiến sĩ họ
Dương viết: “Chùa ở gần trạm Bình Giang,
huyện Lệ Thủy, nước biếc uốn quanh, non xanh chầu về. Hẳn nhiên là một ngôi
chùa u tịch, một cõi thần tiên vậy”. Có thể nói, hầu như khi viết huyện Lệ Thủy trong “Ô châu cận lục”, Dương Văn An hoàn toàn
di chuyển bằng thuyền (?!)
Lệ
Thủy có tuyến chính đường sông trên sông Kiến Giang dài 32km. Đoạn 1 tại cống
An Lạc xã An Thủy đi Trôốc Vực xã Văn Thủy dài 18km. Đoạn 2 từ Trôốc Vực đi khe
Bang dài 14km. Ngoài ra các nhánh sông nối với các hói như hói Quy Hậu nối với
kênh Sen, hói Tuy Lộc nối với Sa Vàng, hói Xuân Lai nối với hói Quan, hói Tân
Lệ nối với Hoa Thủy. Rõ ràng, với hệ thống giao thông nội đồng chằng chịt, ngày
trước khi phương tiện đi lại còn hết sức khó khăn và thiếu thốn thì đường thủy
chính là lựa chọn số 1 trong sinh hoạt và phát triển sản xuất.
Ngày trước, Mạ tôi cùng bạn buôn
đi-về Đồng Hới bằng “đò dọc”, chèo về phá An Lạc, ra đập Mỹ Trung về thẳng của
Nhật Lệ. Họ thay nhau chèo. Chèo nghê ngói, vừa chèo vừa hò điệu mái dài mái
ruỗi: “Ai ơi bạc lắm hỡi mình/ Người xưa kia bán tử chi tình vô vòng con rể/
Thầy mẹ ở nhà thương rể đặt giữa bàn tay/ Gánh tương tư ngày một nặng ngày, chừ
chàng nghe ai mà xiêu lòng lạt dạ...”. Có khi còn hò những câu đối đáp rất
nghịch ngợm:
- “Từng cười
ba chú thợ may
Nhận hàng
móc đó bít ngày mô xong?”
- “Lụa chưa
may anh còn trải đó
Chừ anh xin nói nhỏ với cô ba
Cô ưng may lưng hẹp hay rộng tà
Hay ướm vô cho anh thử rồi cởi ra cho anh làm...”
Người ngồi hoặc hò theo, hoặc giở
gói bún ruốc thịt heo, kẹp với rau muống ngắt dọc bờ sông, vừa ăn vừa trạo
chuyện bán mua rôm rả.
Tôi lớn lên buôn bán ở chợ Tréo, mỗi
lần chở hàng về nhập ở chợ Hôm Tuy, chợ Thùi đều thuê đò của nhà mụ Ú. Cũng
tương tự, người dân ở những vùng dưới như Phú Thọ, Thạch Bàn, An Thủy, Lộc
Thủy... muốn lên chợ Tréo bán mua, tất cả đều bằng đò dọc. Mỗi sớm trưa, bến đò
chợ Tréo tấp nập thuyền đò, ca nô... xuôi ngược. Ở Văn Thủy, Ba Canh... muốn về
chợ Tréo cũng phải đi bằng ca nô khách, ca nô hàng (còn gọi là ca nô chợ) của
anh Cư người Huế...
Đó là chưa kể cả một hệ thống đò
ngang chằng chịt đưa người, hàng hóa di chuyển sang hai bên bờ sông Kiến. Câu
ca “Ai về Lệ Thủy Kiến Giang/ Cầu xây ba
chiếc đò ngang vẫn chèo” phản ánh hoạt động mang giá trị truyền thống, nét
văn hóa của vùng sông nước trù phú này.
Rồi những đám tang của vùng miệt
dưới đưa người quá cố lên vùng bến Cơn Bôông (Cây Bông), đôộng An Sinh... thuộc
các xã Trường Thủy, Văn Thủy mai táng đều bằng thuyền, gọi là “nôốc kết”. Sau
khi đò đã được kết liền với nhau (thường kết đôi, tức kết 2 chiếc song song với
nhau), người ta lướt ván phái trên để tạo thành một mặt phẳng để linh cữu. Âm
công được chia làm hai mạn tả hữu để chèo. Vừa chèo vừa hò những điệu hò đưa
linh nghe bầm gan tím ruột: “Đến ngoẹo cổ
cò ruột héo gan khô...”.
Chèo suốt đêm đến gần sáng, để kịp hạ huyệt khi mặt trời chưa
ló rạng. Việc của cõi âm thì phải vào ban đêm nên tùy theo đoạn đường ngắn dài
mà chọn giờ khởi sự. Suốt chặng đường dài đó chỉ có tiếng phèng la, trống điểm
và tiếng hò khoan.
- “Cuộc hồng trần xoay vần
quá ngắn,
Kiếp phù sinh tụ tán mấy
trăm hồi.
Người đời có biết chăng
ôi,
Thêm người tuy có, có rồi
lại không”
- “Khi nào ra trướng vào
màn, bây giờ nhà cửa, xóm làng
cách xa.
Khi nào mẹ mẹ cha cha,
Bây giờ bóng núi, khuất
xa muôn trùng”
- “Khi nào vợ vợ chồng chồng,
Bây giờ trăng khuyết,
còn mong chi tròn.
Khi nào cháu cháu con
con,
Bây giờ hai ngả, nước non cách vời.”
Khi nện đất lấp mồ, nội dung câu hò đã đến đoạn cách biệt
âm dương, người đi kẻ ở. Người ta không ngớt lời thở than sao lại bỏ nơi êm ấm
mà tìm về nơi hoang lạnh. Lời hò nặng chịch theo tiếng chày nện đất.
“Ba tấc đất ngàn năm ly
biệt,
Cám cảnh này thảm thiết
đau thương.
Bởi vì ai cách biệt âm dương,
Để cho con xa mẹ, nhớ
thương quá chừng.”
Vâng, đó là chuyện xưa. Còn ngày
nay, khi mà phương tiện đi lại đã không thành vấn đề nữa. Ngồi một chỗ có xe
đưa xe đón, máy lạnh “goai phai”, rồi máy bay máy bò hãng này hãng nọ. Sáng ăn
bún riêu cua Hà Nội, trưa chén hủ tiếu Sài Gòn là chuyện quá ư vặt vãnh. Vậy
thì “Ai đó” về Lệ Thủy không còn đi
đò dọc đò ngang để thương thức cái thú thong dong, dân dã đó nữa, thay vào đó,
Lệ Thủy với gạo trắng nước trong, phong cảnh hữu tình, với nhiều di tích lịch
sử, danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cộng với con người Lệ Thủy mến khách, nhận
hậu, thủy chung... sẽ làm cho lữ khách cảm thấy khoan khoái, hài lòng, người sẽ
trở nên thong dong, sảng khoái và mãn nguyện.
“Thong dong con
người” hay “thong dong con ngòi”
chẳng còn quan trọng nữa. Quan trọng là bạn có về Lệ Thủy cùng tôi không?!